Loading

CẤU TRÚC MỘT BÀI THUYẾT TRÌNH TIẾNG ANH (PHẦN 1)

CẤU TRÚC MỘT BÀI THUYẾT TRÌNH TIẾNG ANH (PHẦN 1)
1.Tự giới thiệu (Introducing yourself)
- Good morning, ladies and gentlemen. (Chào buổi sáng quí ông/bà)
- Good afternoon, everybody (Chào buổi chiều mọi người.)
- I’m … , from [Class]/[Group]. (Tôi là…, đến từ…)
- Let me introduce myself; my name is …, member of group 1 (Để tôi tự giới thiệu, tên tôi là …, là thành viên của nhóm 1.)
2. Giới thiệu chủ đề (Introducing the topic)
- I am going to talk today about...(Hôm nay tôi sẽ nói về)
- The purpose of my presentation is... (Mục đích bài thuyết trình của tôi là...)
- I'm going to take a look at… (Tôi sẽ xem xét về...)
- I'm going to give you some facts and figures… (Tôi sẽ đưa ra cho quý vị một vài sự kiện và con số...)
- I'm going to concentrate on… (Tôi sẽ tập trung vào...)
- I'm going to fill you in on the history of… (Tôi sẽ cung cấp thông tin về lịch sử của...)
- I'm going to limit myself to the question of… (Tôi sẽ tự giới hạn cho câu hỏi về...)
- Today I am here to present to you about [topic]….(Tôi ở đây hôm nay để trình bày với các bạn về…)
- I would like to present to you [topic]….(Tôi muốn trình bày với các bạn về …)
- As you all know, today I am going to talk to you about [topic]….(Như các bạn đều biết, hôm nay tôi sẽ trao đổi với các bạn về…)
- I am delighted to be here today to tell you about…(Tôi rất vui được có mặt ở đây hôm nay để kể cho các bạn về…)
3. Giới thiệu cấu trúc bài thuyết trình (Introducing the structure)
- My presentation is divided into x parts.(Bài thuyết trình của tôi được chia ra thành x phần.)
- I'll start with / Firstly I will talk about… / I'll begin with(Tôi sẽ bắt đầu với/ Đầu tiên tôi sẽ nói về/ Tôi sẽ mở đầu với) then I will look at …(Sau đó tôi sẽ chuyển đến phần). Next,… (tiếp theo ) and finally…(cuối cùng)
4. Đưa ra câu hỏi (Giving questions)
- Do feel free to interrupt me if you have any questions.(Đừng ngại cắt ngang lời tôi nếu quý vị có bất kì câu hỏi nào.)
- I'll try to answer all of your questions after the presentation. (Tôi sẽ cố giải đáp mọi câu hỏi của quý vị sau bài thuyết trình.)
- I plan to keep some time for questions after the presentation. (Tôi sẽ dành một khoảng thời gian cho các câu hỏi sau bài thuyết trình.)
- There will be time for questions at the end of the presentation. (Sẽ có thời gian cho các câu hỏi vào cuối bài thuyết trình.)
- I'd be grateful if you could ask your questions after the presentation. (Tôi rất biết ơn nếu quý vị có thể đặt các câu hỏi của mình sau bài thuyết trình.)
SHARE để lưu lại cả nhà nhé!

CẤU TRÚC THÀNH NGỮ VỚI “TO DO” (PHẦN 1)

CẤU TRÚC THÀNH NGỮ VỚI “TO DO” (PHẦN 1)
1. To do (say) the correct thing - Làm (nói) đúng lúc, làm (nói) điều phải
2. To do (sb’s) job; to do the job for (sb) - Làm hại ai
3. To do (work) miracles - Tạo kết quả kỳ diệu
4. To do a baby up again - Bọc tã lại cho một đứa bé
5. To do a course in manicure - Học một lớp cắt, sửa móng tay
6. To do a dirty work for him - Làm giúp ai việc gì nặng nhọc
7. To do a disappearing act - Chuồn, biến mất khi cần đến
8. To do a good deed every day - Mỗi ngày làm một việc thiện
9. To do a guy - Trốn, tẩu thoát
10. To do a meal - Làm cơm
11. To do sth in a leisurely fashion - Làm việc gì một cách thong thả
12. To do sth for the sake of sb, for sb’s sake - Làm việc gì vì người nào,vì lợi ích người nào
13. To do sth for lucre - Làm việc gì để vụ lợi
14. To do sth for effect - Làm việc gì để tạo ấn tượng
15. To do sth for amusement - Làm việc gì để giải trí
16. To do sth for a lark - Làm việc gì để đùa chơi
17. To do sth by mistake - Làm việc gì một cách vô ý, sơ ý
18. To do sth by halves - Làm cái gì nửa vời
19. To do sth behind sb’s back - Làm gì sau lưng ai
20. To do sth at, (by) sb’s command - Làm theo mệnh lệnh của người nào
21. To do sth at sb’s dictation - Làm việc theo sự sai khiến của ai
22. To do sth at sb’s behest - Làm việc gì do lệnh của người nào
23. To do sth at request - Làm việc gì theo lời yêu cầu
24. To do sth at (one’s) leisure - Làm việc thong thả, không vội
25. To do sth anyhow - Làm việc gì tùy tiện, thế nào cũng được
SHARE để lưu lại học dần cả nhà nhé!

Kỹ năng nghe hiểu trong tiếng Anh, những khó khăn và biện pháp khắc phục

Kỹ năng nghe hiểu trong tiếng Anh, những khó khăn và biện pháp khắc phục


 
4:59 PM
     Ngày nay, tiếng Anh là thứ tiếng thông dụng được sử dụng rộng rãi nhất trên thế giới. Đó là ngôn ngữ của khoa học kỹ thuật, công nghệ, thương mại và thông tin trên toàn cầu. Tiếng Anh đã trở thành môn học bắt buộc trong hầu hết các trường học ở Việt Nam, đặc biệt là trong trường đại học. Trên thực tế, trong quá trình học tiếng Anh, sinh viên gặp phải rất nhiều khó khăn và khó khăn phổ biến nhất là những khó khăn trong quá trình học kỹ năng nghe hiểu. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi xin đề cập những khó khăn khi nghe nhìn từ quan điểm người học, đồng thời tìm ra nguyên nhân của chúng để từ đó đưa ra một số biện pháp khắc phục nhằm giúp người học vượt qua khó khăn, đặc biệt trong giai đoạn đầu khi mới học nghe.


1. Định nghĩa về nghe hiểu
Định nghĩa về nghe hiểu được các nhà khoa học đưa ra theo các cách khác nhau.
Theo Field (1998:38) thì ‘Nghe là một quá trình trí tuệ không nhìn thấy được, do đó rất khó mô tả. Người nghe phải phân biệt được các âm, hiểu được từ vựng và cấu trúc ngữ pháp, nắm được trọng âm và ý định của người nói, có thể nhớ lại và hiểu được nó trong ngữ cảnh văn hóa-xã hội của phát ngôn.’
Anderson & Lynch (1988: 21) đưa ra định nghĩa về nghe hiểu như sau:
‘Nghe hiểu nghĩa là hiểu những gì mà người nói đã nói. Người nghe có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình nghe bằng cách vận dụng kiến thức đa dạng của mình phân tích những gì anh ta nghe được để có thể hiểu phát ngôn của người nói.’
Wolvin & Coakley (1985) định nghĩa nghe theo cách đơn giản hơn: ‘Nghe là quá trình cơ quan thính giác tiếp nhận, xử lý và xác định được thông điệp của lời nói.’
Định nghĩa về nghe hiểu, theo Văn Tân và Nguyễn Văn Đạm (1997) trong ‘Từ điển tiếng Việt’ được đưa ra cụ thể như sau: ‘Nghe là một quá trình trong đó thính giác tiếp nhận những âm thanh bên ngoài và chuyển nó đến hệ thống thần kinh trungương. Tại đây, những âm thanh này được phân tích, chuyển thành những tín hiệu và được truyền đến các giác quan giúp hình thành những phản xạ của con người đối với những âm thanh đó.’
Các định nghĩa trên cho thấy nghe hiểu là một kỹ năng giải quyết vấn đề (problem-solving) phức tạp. Nhiệm vụ của nghe hiểu không chỉ là tiếp nhận âm thanh mà nó còn đòi hỏi sự phân tích và xác định được thông điệp của lời nói.

2. Những khó khăn thường gặp trong quá trình học kỹ năng Nghe
Thông thường, con người luôn nghe với một mục đích nhất định. Nếu mục đích của nghe chỉ để thư giãn, giải trí nhằm giải tỏa căng thẳng như nghe nhạc chẳng hạn thì người nghe hầu như không cần phải có bất kỳ một kỹ năng nào cả. Tuy nhiên, nếu mục đích nghe là để thu nhận thông tin, đặc biệt là khi nghe băng, đĩa ngoại ngữ để học tiếng thì người học cần phải có một số kỹ năng như: phán đoán trước khi nghe, tập trung trong khi nghe, suy ra thông tin chính cần nghe từ những từ ngữ quan trọng trong bài (key words), phân tích, tổng hợp những thông tin nghe được. Kỹ năng nghe được tạo thành từ một loạt các kỹ năng riêng lẻ đó.
Đa số người học đều có nhận định rằng một văn bản nếu ở dạng viết có thể đơn giản đối với họ trong xử lý thông tin, nhưng cũng văn bản đó ở dạng nói thì người học lại gặp rất nhiều khó khăn trong việc nắm bắt nội dung chính của bài. Tại sao lại như vậy? Dưới đây là quan điểm của một số tác giả khi đưa ra những khó khăn mà người học thường gặp phải trong quá trình học kỹ năng nghe.

2.1. Quan điểm của một số tác giả về những khó khăn khi nghe.
Theo Ur, P. (1996), tác giả của nhiều cuốn sách viết về việc dạy tiếng (language teaching) thì người học thường gặp phải những khó khăn sau đây trong khi học nghe: (1) Không nhận ra được các âm mà người Anh nói, (2) Có thói quen phải hiểu tất cả các từ trong câu mới hiểu được nội dung của bài, (3) Không thể hiểu được khi người Anh nói nhanh một cách tự nhiên, (4) Cần phải nghe nhiều lần mới có thể hiểu được, (5) Thấy khó có thể nắm bắt được tất cả các thông tin và không dự đoán được điều mà người nói sắp nói, (6) Nếu phải nghe kéo dài, người học sẽ cảm thấy mệt mỏi và thiếu tập trung.
Khi đề cập đến những khó khăn của người học đối với môn nghe, hai nhà giáo học pháp ngoại ngữ là Nguyễn Bàng và Nguyễn Bá Ngọc cũng liệt kê ra 6 khó khăn sau đây: (1) Gặp khó khăn với các âm tiếng Anh, (2) Phải hiểu hết các từ, (3) Không hiểu được khi người Anh nói nhanh tự nhiên, (4) Thấy khó có thể theo kịp tốc độ nói của người Anh, (5) Cần nghe đi nghe lại nhiều lần, (6) Mệt mỏi và thất vọng.
Trong cuốn ‘Teaching Listening’, Underwood (1989) cũng đưa ra một số khó khăn của người học nghe. Đó là: (1) Không theo kịp được tốc độ của người nói, (2) Không thể nhắc lại được thông tin, (3) Hạn chế về vốn từ vựng, (4) Không nhớ hết tất cả các thông tin nghe được, (5) Không nắm bắt được thông tin chính, (6) Không thể tập trung và (7) Không hình thành được thói quen nghe.
Những khó khăn trong quá trình học kỹ năng nghe nhìn từ quan điểm của người học cũng được các tác giả Hoàng Văn Vân, Nguyễn Thị Chi và Hoàng Thị Xuân Hoa (2006) nêu ra trong cuốn ‘Đổi mới phương pháp dạy tiếng Anh ở Trung học Phổ thông Việt Nam’ như sau: (1) Khó khăn về nghe âm tiếng Anh, (2) Phải hiểu được tất cả các từ mới nắm bắt được ý định của người nói, (3) Không hiểu được người bản ngữ khi họ nói nhanh tự nhiên, (4) Cần phải nghe đi nghe lại nhiều lần, (5) Thấy khó nắm bắt được tất cả các thông tin và không dự đoán được thông tin tiếp theo, (6) Không tập trung khi nghe.
Nói tóm lại, theo nhận định của các nhà khoa học kể trên thì người học thường gặp phải những khó khăn phổ biến sau đây trong khi nghe: (1) Không nhận ra các âm tiếng Anh, (2) Hạn chế về vốn từ vựng, (3) Thiếu tập trung khi nghe, (4) Khó có thể nắm bắt ý chính của bài nghe, (5) Cần nghe nhiều lần và (6) Không theo kịp tốc độ của người nói.

2.2. Một số khó khăn phổ biến của sinh viên không chuyên khi học nghe
Bằng cách liệt kê ra những khó khăn của người học đối với môn nghe theo quan điểm của các nhà khoa học trình bày ở trên, chúng tôi đã xây dựng nên những câu hỏi điều tra nhằm thu thập thông tin thực tế phục vụ cho quá trình nghiên cứu tìm ra những khó khăn mà sinh viên không chuyên thường gặp phải trong quá trình học kỹ năng nghe.
Trên thực tế, theo kết quả khảo sát gần 80 sinh viên năm thứ hai theo học khoa Văn hóa Du lịch trường Đại học Văn hóa Hà Nội thì có ba khó khăn phổ biến nhất trong việc học nghe là:  (1) Không nhận ra các âm tiếng Anh (49%), (2) Thiếu tập trung khi nghe (57%), (3) Khó có thể nắm bắt ý chính của bài nghe (71%).

3. Nguyên nhân của những khó khăn khi nghe

3.1. Nguyên nhân của việc không nhận ra các âm tiếng Anh
Khi được hỏi về nguyên nhân của việc gặp khó khăn với các âm trong tiếng Anh, 31% số người tham gia điều tra cho rằng khó khăn này là do họ không phân biệt được các từ đồng âm, đặc biệt là các từ có cách phát âm gần giống nhau. 28% số sinh viên được hỏi nhận định việc nhầm lẫn giữa dạng khẳng định và dạng phủ định là nguyên nhân chủ yếu. Đặc biệt là 40% số sinh viên tham gia điều tra cho rằng họ không nhận ra thông tin chính cần nghe là do một vài đặc điểm trong phát âm chuỗi lời nói (connected speech) trong tiếng Anh như: hiện tượng nuốt âm (elision), dạng yếu trong phát âm một số từ chức năng (weak form), hiện tượng đồng hóa âm vị (assimilation), hiện tượng rút gọn của từ (contraction), hiện tượng nối âm (linking),.... Như vậy, việc người học không nhận ra các âm trong tiếng Anh chủ yếu là do (1) không phân biệt được các từ đồng âm và các từ có cách phát âm gần giống nhau, (2) nhầm lẫn giữa dạng khẳng định và dạng phủ định, đặc biệt là do (3) một số ảnh hưởng về phát âm chuỗi lời nói trong tiếng Anh.

3.2. Nguyên nhân của việc thiếu tập trung khi nghe
Số liệu thu được từ cuộc điều tra cho thấy 30% số sinh viên cho rằng nguyên nhân của việc thiếu tập trung khi nghe là do sức khỏe không tốt trong khi số lượng sinh viên nhiều hơn (37%) coi việc thiếu kinh nghiệm khi nghe là nguyên nhân làm cho họ càng lúc càng cảm thấy khó tập trung vào bài nghe. Trong khi đó 32% số sinh viên tham gia điều tra nghĩ rằng khả năng kém tập trung của họ vào bài nghe là do cả hai nguyên nhân trên. Từ những số liệu này có thể kết luận rằng người nghe thường mất khả năng tập trung nghe khi (1) tình trạng sức khỏe không tốt và (2) thiếu kinh nghiệm trong nghe hiểu.

3.3. Nguyên nhân của việc không thể nắm bắt ý chính của bài nghe
Theo số liệu thu được thì đây là nguyên nhân phổ biến nhất gây ra khó khăn trong khi nghe cho người học (71%). Khi được hỏi về nguyên nhân của khó khăn này, 36% số người tham gia cho rằng họ khó có thể nắm bắt ý chính của bài nghe vì họ không biết đâu là thông tin quan trọng cần nghe trong bài. 37% số sinh viên lại cho rằng việc họ không thể suy luận được nội dung chính của bài nghe từ những từ ngữ quan trọng (key words) làm cho họ không nắm bắt được ý chính khi nghe. Số người chọn cả hai nguyên nhân là 25%. Những số liệu này cho thấy nguyên nhân của tình trạng khó có thể nắm bắt nội dung chính của bài nghe là (1) không phân biệt được thông tin cần nghe với những thông tin còn lại và (2) không suy luận được ý chính của bài nghe từ những từ ngữ quan trọng.

4. Biện pháp khắc phục

Những giải pháp được đưa ra trong phần này xuất phát từ chính những nguyên nhân gây ra khó khăn cho người học với hi vọng có thể giúp người học phần nào khắc phục khó khăn, tìm ra phương pháp thich hợp nhất cho bản thân trong quá trình học kỹ năng nghe.

4.1. Giải pháp cho việc không nhận ra các âm tiếng Anh

4.1.1. Cách phân biệt các từ đồng âm, từ có cách phát âm gần giống nhau
Dựa vào cách phát âm
Cách này có thể áp dụng hiệu quả cho các từ có cách phát âm gần giống nhau vì chúng có trọng âm rơi vào các âm tiết khác nhau, ví dụ như thirteen / thirty và độ dài ngắn của các âm là khác nhau, ví dụ ‘ship/sheep’, ‘fit/ feet’.
Dựa vào nghĩa của cả câu và chức năng của từ trong câu
Các từ đồng âm được phát âm giống hệt nhau, rất dễ gây nhầm lẫn cho người nghe, ví dụ some / sum, I/ eye, son/ sun.  Bên cạnh đó lại có những từ đồng âm và đồng cách viết mang nghĩa khác nhau (homonyms) như left, flat, saw, play. Do vậy, người học cần phải dựa vào chức năng của từ đó trong câu, cấu trúc câu được tạo nên bởi từ đó, đặc biệt là ngữ cảnh của câu (context) để suy luận và chọn ra từ đúng.
Ví dụ: (TOEFL 4 in 1 CD-ROM, TOEFL Explorer, Tutorial)
Question: Which answer has the closest meaning to the statement?
Tapescript: The man was fired for overlooking the security checks.
Answer choices:       a. The man was tired because he overdid his work.
                              b. The chicks were overcooked.
                              c. The man lost his job because he did not check the security.
                              d. The tired man looks over the check for mistakes
Trong các lựa chọn đã cho ở trên, người nghe rất khó phân biệt ‘fired’ với ‘tired’, ‘overlooking’ với ‘overcooking, ‘checks’ với ‘chicks’. Tuy nhiên, giới từ của ‘tired’ là ‘of’ chứ không phải là ‘for’ nên có thể loại bỏ lựa chọn ‘a’ và ‘d’. Hơn nữa, ‘security chicks’ không có nghĩa nên từ đúng phải là ‘security checks’. Thêm vào đó, ‘security checks’ không thể ‘overcooked’ nên phải chọn  ‘overlooking’. Do đó lựa chon c là đúng.

    4.1.2. Cách khắc phục nhầm lẫn giữa dạng khẳng định và dạng phủ định
Trong tiếng Anh, để phủ định, người ta thường dùng các trợ động từ trong câu. Ngoài ra, dạng phủ định của từ cũng có thể được tạo nên nhờ các phụ tố (tiền tố hoặc hậu tố) như: im- trong impossible, il- trong illegal, dis- trong dissatisfied, -lesstrong careless. Do đó, để tránh nhầm lẫn giữa dạng khẳng định và dạng phủ định trong bài nghe, người học cần đặc biệt chú ý đến các phụ tố, các trợ động từ cũng như một số yếu tố khác như giọng điệu của người nói và ngữ cảnh của câu.
Ví dụ: (TOEFL 4 in 1 CD-ROM, Longman Test 1)
Question: Which answer has the closest meaning to the statement?
Tapescript: The researcher isn’t at all dissatisfied with his findings.
Answer choices:               a. He is pleased with his result.
                                      b. He isn’t satisfied with all his work.
                                      c. He found that all his work wasn’t satisfactory.
                                      d. He satisfied all the panel of his findings.
Trong ví dụ này người nghe cần phải phân biệt được hai từ ‘satisfied’ và ‘disatisfied’ để chọn phương án trả lời đúng. Nếu chú ý các lựa chọn cho trước (answer choices) trước khi nghe thì người nghe có thể phát hiện ra ngay từ ‘satisfied’ không phải là từ đúng cần nghe vì nghĩa của đáp án b và c là giống nhau. Ngoài ra, câu nói được phủ định hai lần nên nó mang nghĩa khẳng định. Thêm vào đó, câu trả lời d (the panel of his findings) không mang nghĩa như câu nói trong đĩa nên câu a sẽ là câu trả lời đúng.

4.1.3. Cách khắc phục một số ảnh hưởng về cách phát âm chuỗi lời nói trong tiếng Anh
Anne Anderson & Tony Lynch (1988) nhận định rằng một số ảnh hưởng về cách phát âm chuỗi lời nói trong tiếng Anh như dạng yếu trong phát âm một số từ chức năng (weak forms), hiện tượng rút gọn của từ (contractions), hiện tượng nuốt âm (elision), hiện tượng nối âm (linking),... gây cho người học khá nhiều khó khăn khi nghe, đặc biệt là với những người mới học ngoại ngữ. Do đó, sinh viên nên làm quen với những hiện tượng này bằng cách tìm học những ví dụ thường gặp và đặc trưng cho từng hiện tượng, tập phát âm các cụm từ đó, viết ra nhật ký học tập để ghi nhớ.
Ví dụ: 1. Cách phát âm dạng yếu (weak forms) thường gặp trong chuỗi lời nói nhanh và đôi khi không mang tính nghi thức như: wanna, hafta, kuz, gonna, dunno, don’cha know. Đây là hình thức rút gọn của ‘want to, have to, because, going to, don’t know, don’t you know.’
         2. ‘kind of’ và ‘sort of’ đôi khi được rút gọn thành ‘kinda’ và ‘sorta’
         3. Những trợ động từ ‘would like, can, may, will, would, ought to, so on and so forth’ cũng thường được rút gọn trong câu nói.

4.2. Giải pháp cho việc thiếu tập trung khi nghe

4.2.1.Tránh hoặc khắc phục tình trạng sức khỏe không tốt
Tình trạng sức khỏe không tốt như mắc bệnh hay mất ngủ, thiếu ngủ có thể gây cho người học mất tập trung khi nghe. Do vậy, người nghe cần phải tránh nhiễm bệnh, nếu chẳng may bị nhiễm bệnh cần tìm mọi cách khắc phục và tránh hiện tượng thiếu ngủ trước khi nghe, nhất là trước khi làm bài thi.

4.2.2.   Thường xuyên luyện tập nghe
Trong khi nghe, một người nghe giàu kinh nghiệm bao giờ cũng có nhiều lợi thế hơn những người nghe ít kinh nghiệm do trong quá trình luyện tập, họ đã hình thành được một số kỹ năng. Do đó, để nâng cao khả năng nghe hiểu, người học ngoại ngữ nên tích cực luyện tập một cách hợp lý và có phương pháp. Bằng việc thường xuyên luyện tập và tiếp xúc với các tài liệu có mức độ thay đổi từ dễ đến khó, cùng với thời gian, người học sẽ hình thành được kỹ năng nghe. Sinh viên không chuyên trong hai năm đầu có thể sử dụng một số tài liệu phù hợp như sau: (1) Listen carefully(Jack C. Richards), (2) Ship or Sheep (Ann Baker), (3) Listen for it (Jack C. Richards, Deborah Gorbon, Andrew Harper), (4) Three or Tree (Ann Baker), (5)Think First Certificate (John Naunton)
Để luyện phần phát âm, sinh viên có thể vào các trang Web sau:
http://www.soundsofenglish.org/
http://polyu.edu.hk/Pronunciation/la-index.htm
http://www.manythings.org/pp/
http://www.efl.net/
Ngoài ra, sinh viên cũng có thể truy cập vào các trang Web sau để thực hành nghe:
http:// www.eslhome.com/esl/listen/
http://www.EnglishListening.com
http:// www.nclnc.org/essentials/listening/developlisten.htm
http://esl-lab.com/
4.3. Giải pháp cho việc khó có thể nắm được ý chính của bài nghe

4.3.1. Cách phân biệt thông tin cần nghe (relevant points)  với những thông tin còn lại (irrelevant information)
Thông thường, trước khi nghe, bao giờ người nghe cũng có một khoảng thời gian ngắn (1-2 phút) để đọc qua những câu hỏi yêu cầu hoặc nghe chỉ dẫn trong băng, đĩa. Nếu biết tận dụng những câu hỏi và chỉ dẫn này, người học có thể suy đoán thông tin cần nắm bắt và chủ đề của bài nghe, nhờ đó người nghe có thể vận dụng vốn hiểu biết của mình để có sự chuẩn bị trước về vốn từ và một số cấu trúc câu cần thiết. Nếu làm tốt điều này thì lượng thông tin cần ghi nhớ sẽ giảm đi, người nghe sẽ phần nào phân biệt được những thông tin cần nghe với những thông tin không quan trọng khác trong bài.

4.3.2. Cách suy luận được ý chính của bài nghe qua từ ngữ quan trọng
Những từ ngữ quan trọng trong bài là những từ ngữ mà dựa vào đó, người nghe có thể suy ra ý chính của bài nghe. Thường thì những từ này được nhấn mạnh trong câu hoặc có thể được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong bài. Chính vì vậy, người nghe nên dựa vào một số dấu hiệu ngôn từ (discourse markers) này để nắm bắt được ý chính của bài nghe.
Ví du:
Những cụm từ dùng để liệt kê ý chính là: I would like to emphasize, The general point you must remember is, It is important to note that, I repeat that, Another thing is, Finally, That is, Now,...
Những cụm từ được sử dụng để liệt kê ví dụ là: such as, Let me give you some examples, For example/ instance, I might add, To illustrate thi spoint,...
Những cụm từ thường dùng khi đề cập đến những vấn đề không quan trọng là:By the way, I might note in passing,....
Ngoài ra, để có thể ghi nhớ hết những thông tin quan trọng trong bài, người nghe cần có sự ghi chép (take notes). Tuy nhiên, cần phải bố trí phần ghi chép cho hợp lý để dễ sử dụng và tránh gây nhầm lẫn.
Kết luận: Có thể nói rằng kỹ năng nghe có vai trò hết sức quan trọng trong quá trình học ngoại ngữ vì nó có tác động rất tích cực đến các kỹ năng khác như nói, đọc, viết, giúp luyện phát âm và mở mang vốn từ vựng. Thực tế cho thấy người học gặp khá nhiều khó khăn trong quá trình nghe hiểu. Để khắc phục những khó khăn trên, người học cần tìm ra nguyên nhân của chúng để từ đó có cách giải quyết hợp lý. Những giải pháp đưa ra trong bài viết này có thể phát huy hiệu quả nếu được áp dụng một cách đúng đắn. Tuy nhiên, điều quan trọng là bản thân người học phải kiên trì, bền bỉ, lựa chọn phương pháp thích hợp phù hợp với trình độ và hoàn cảnh của mình

Phương pháp luyện nghe tiếng anh giao tiếp hay

Giống như các kỹ năng khác, luyện nghe tiếng anh giao tiếp đóng vai trò quan trọng trong việc tiếp thu và lĩnh hội tri thức tiếng anh giao tiếp quốc tế. Nếu bạn có kỹ năng nghe tốt, bạn sẽ nâng cao được khả năng phát âm tiếng anh và kỹ năng giao tiếp tiếng anh của mình.

Ngày nay việc sử dụng tiếng anh trong giao tiếp hàng ngày không chỉ với những người còn đang học tiếng Anh, mà cả với những người đã học và đang sử dụng ngôn ngữ  này thường xuyên thì kỹ năng nghe tiếng anh vẫn là một kỹ năng khó. Rất hiếm khi có ai học tiếng Anh như tiếng thứ 2 mà có thể hiểu 100% tất cả từng câu từng từ người nước ngoài nói. Tuy nhiên, nếu rèn luyện đúng phương pháp và đều đặn, việc thành thạo trong kỹ năng nghe tiếng Anh, ngay cả với những học sinh còn đang đi học, là hoàn toàn có thể.
 
Luyện nghe tiếng anh giao tiếp, kỹ năng luyện nghe tiếng anh giao tiếp hay

    Phương pháp luyện nghe tiếng anh giao tiếp hay giúp bạn tự tin giao tiếp tiếng anh hàng ngày


Tip 1: Luyện phát âm tiếng Anh  giao tiếp chuẩn

Nhiều người sẽ băn khoan tại sao khi đang bàn tới kĩ năng luyện nghe tiếng Anh mà lại nhắc tới việc phát âm. Thế nhưng, thực tế thì việc nắm chắc và phát âm  đúng trong tiếng Anh sẽ giúp bạn rất nhiều trong việc nghe tốt tiếng Anh. 90% sinh viên phát âm tiếng Anh sai, và hầu hết sinh viên đều dùng tiếng Anh không có trọng âm, không có vần điệu lên xuống. Điều này đồng nghĩa với việc gì?

Giả sử khi bạn nắm không tốt kỹ năng phát âm tiếng Anh trong lúc học, và nắm được nhịp điệu cần thiết trong tiếng Anh cũng giống như bạn sống ở Hà Nội mà vào Huế nghe nói chuyện vậy. Rõ ràng  là người Huế nói tiếng Việt, nhưng tại sao lại khó nghe đến vậy. Vì cách họ phát âm từ khác với người Hà Nội. Người Hà Nội không quen cách phát âm và nhấn nhá âm điệu kiểu Huế nên phải gồng mình lên nghe mà cũng chẳng hiểu gì. Tương tự với tiếng Anh, việc bạn cẩu thả trong phát âm tiếng anh có thể ngăn cản việc bạn nghe tiếng Anh tốt.

Và một lời khuyên cho  giờ này vẫn chưa thật chắc chắn về phát âm tiếng Anh là hãy rà soát lại toàn bộ những kiến thức này của mình và sửa ngay nếu thấy hổng nhé
Biết được cách phát âm tiếng anh chuẩn của người nước ngoài sẽ giúp bạn nghe tiếng Anh tốt lên rất nhiều.
Tip 2: Hãy cố gắng tập trung vào từng phần khi luyện nghe tiếng anh giao tiếp
Khi nghe bạn hãy thực sự tập trung. Nghe ai nói mà không tập trung, kể cả tiếng Việt cũng đã khó chứ đừng nói là tiếng Anh. Khi đang nghe tiếng Anh, hãy chắc rằng đầu bạn đang làm việc. Khi tai nghe được gì thì đầu cũng tiếp nhận và dịch ra từng đấy. Điều sợ nhất trong luyện nghe tiếng Anh giao tiếp là để tiếng đi qua “rửa tai” cái đầu không hoạt động,. Không tập trung, cho dù có ngồi nghe cả buổi mà không cố gắng tập trung thì cũng không nên cơm cháo gì đâu bạn nhé.
Tip 3: Luyện nghe tiếng anh giao tiếp theo phương pháp ngược

Một phương pháp truyền thống khi luyện nghe tiếng Anh của học sinh là nghe trước, chữa sau. Nghĩa là các bạn học sinh có xu hướng bật file mp3 nghe bài trước, nghe đi nghe lại, đến khi nào không nghe được hoặc mệt quá thì mới lôi phần file đánh chữ ra so sánh đối chiếu.

Đôi khi bạn sẽ thấy hiệu quả nếu bạn làm ngược lại. Đầu tiên, hãy cầm file văn bản của bài nghe, đọc và dịch. Bạn không cần phải vội, cứ đọc từ từ, phân tích ý, dịch cẩn thận, cày bài thế nào tùy ý. Miễn là bạn phải hiểu bài thật tốt. Nếu cảm thấy cần thiết cứ lấy từ điển ra tra từ mới. Sau khi đọc xong bài, hãy dành ra vài giây hình dung lại tổng thể cả bài nói về cái gì và chuyển sang nghe. Bật đúng file bài đó lên và nghe.

Tất nhiên, chả cần nghe bạn cũng thừa biết nó nói về cái gì. nhưng hãy cứ nghe một cách chăm chú.  Nếu trình độ nghe của bạn đang ở tầm trung, bạn sẽ nhận thấy mình thường chỉ nghe được lõm bõm vài ba từ. Nhưng do đã đọc văn bản nên bạn nghe được nhiều từ hơn. Số từ còn lại bạn không nghe được nhưng vì đã đọc rồi. Bạn hãy cứ nghe tiếp như vậy vài lần. Sau khi đã khá ngấm, bây giờ là lúc cày bài nghe. Tốt nhất là dùng Media player để dễ dàng điều chỉnh ngắt nhịp của file khi cần. Bây giờ hãy cầm văn bản lên kết hợp với nghe.

Bạn cũng phải thường xuyên để ý đến những từ mình đọc trong văn bản nhưng trong file nghe lại chưa nghe tốt được, hãy bật đi bật lại những đoạn xung quanh các từ đó. Bây giờ vấn đề không phải là hiểu bài nói gì, mà bạn phải cày để tai của mình quen với tất cả các từ trong bài và phát hiện ra chúng.

Đừng sợ rằng cách làm ngược này sẽ không phát huy hiệu quả. Hãy làm thử trong một thời gian đều đặn, bạn sẽ nhận thấy hiệu quả.

Tip 4: Khi nghe tiếng Anh hãy để tâm lý mình thật thoải mái và rèn luyện khả năng dự đoán

Một trong những sai lầm của nhiều người luyện nghe tiếng Anh là họ quá  hồi hộp. Khi giao tiếp với ai đó sử dụng tiếng Anh, biết là khả năng nghe của mình không tốt, họ cứ lo lắng và dành nhiều thời gian để sợ hơn là để tập trung nghe. Hãy cố gắng giữ bình tĩnh nếu bạn phải đối thoại với người bản ngữ cho dù trình độ nghe của bạn chưa tốt. Phải từ từ tập trung thì bạn mới có thể nghe được.

Một điều nên nhớ nữa là hãy cố gắng đoán nghĩa. Đừng bao giờ cho rằng bạn phải nghe được từng câu từng chữ mới là đạt. Bạn chỉ cần nghe được những từ khóa quan trọng, cộng thêm nhịp điệu, thái độ người nói và văn cảnh là có thể nhận ra ý người người nói muốn truyền đạt. Muốn đạt đến khả năng nghe đâu thủng đấy, bạn phải tiếp tục luyện tập.

Có 1 điều đặc biệt đó là không phải bạnh cứ nghe nhiều là tốt, việc nghe nhiều cần kết hợp với việc bạn tập trung trọng tâm vào 1 vấn đề giao tiếp cụ thể. Nhiều người cứ cố gắng nghe từng từ một , cố gắng nghe hết nhưng thực sự đến sau những cái bạn nghe đó vẫn không hề ảnh hưởng đến việc giao tiếp bằng tiếng anh.

Tip 5: Chọn nguồn nghe và tài liệu luyện nghe tiếng anh giao tiếp

Vi
ệc luyện nghe tiếng Anh giao tiếp tốt cần cũng cần chọn các nguồn học và tài liệu chuẩn. Khi lựa chọn được các nguồn học tiếng Anh tin cậy, hãy thực hành với các nguồn và phương tiện khác nhau.

Ngày nay các nguồn học tiếng anh giao tiếp hàng ngày khá phong phú, các nguồn nghe trên internet, phương tiện truyền thông và nguồn các nhân đều thuận tiện cho việc luyện nghe. Bạn có thể học luyện nghe tiếng anh giao tiếp qua các kênh thông tin như bổ ích như BBC, CNN, VOA....

Để luyện nghe tiếng anh giao tiếp hiệu quả hàng ngày là khó nhưng không phải là điều không thể làm được nếu như bạn có một sự quyết tâm, cố gắng nổ lực phấn đấu hết sức mình trong việc học thì chắc rằng mọi thứ sẽ dễ dàng và suôn sẻ hơn nhiều đấy. Chúc các bạn thành công!

Để phát triển kỹ năng học nói tiếng anh giao tiếp hàng ngày lưu loát nhất ?

Trong tiếng anh giao tiếp có tất cả 4 kỹ năng : nghe, nói, đọc, viết (Listening, Speaking, Reading, Writing). Đối với các kỹ năng Listening, Reading, Writing thì chúng ta có thể tự học một mình được . Còn đối với Speaking thì điều đó là không thể, muốn giỏi chúng ta phải có ít nhất một người bạn đồng hành để cùng nhau luyện học nói tiếng Anh 1 cách hiệu quả nhất. Khi bạn không nghe được Tiếng Anh thì bạn sẽ không nói được Tiếng Anh, nghe tiếng anh tốt sẽ giúp bạn nói tiếng anh tốt, nhưng không có nghĩa là bạn sẽ nói được tiếng anh nếu bạn nghe được, mà luyện nói cũng là cả một quá trình song song với việc luyện nghe.



1. Hãy luyện cách nói “nhại”
Bạn đã từng nghe BBC, CNN, VOA, Discovery Channel, Cartoon Network, nghe nhạc hay xem phim online, thấy các MC, ca sỹ, diễn viên, những người thu âm có giọng nói Tiếng Anh chuẩn ngọt ngào, ấn tượng đúng không? Còn chờ gì nữa mà không ... "lẩm bẩm" nhại theo những sao ấy. Mỗi khi nghe một câu nói "great", nhất là các câu dùng trong đời sống hằng ngày mà những người trong đài truyền hình hay dùng, bạn hãy ngay lập tức nhại lại xem chuyện gì xảy ra? Có khi bạn sẽ nói câu đó với giọng y hệt "sao" ý chứ!
Nếu bạn cẩn thận hơn thì bạn có thể lôi từ điển ra, soi phát âm tiếng anh của từng từ chưa biết trong câu rồi đọc trôi chảy 1 lần, sau đó mở phim và nhại lại. Cách làm này cực kỳ hiệu nghiệm vì giọng nói diễn viên/MC/ ca sỹ sẽ đi thẳng vào não bạn và "sống ẩn dật" trong đó. Được đối chiếu với phiên âm, bạn sẽ nắm được cả quy luật phát âm của các âm và áp dụng với những lần sử dụng khác nữa.
2. Tiếp cận môi trường luyện nói tiếng anh
Môi trường là yếu tố vô cùng quan trọng đối với người học ngôn ngữ. Chỉ cần có môi trường tích cực, bạn sẽ "lên tay" chóng mặt. Đối với Tiếng Anh, một ngôn ngữ phổ biến có tính chất toàn cầu, tìm môi trường nói không hề khó. Câu lạc bộ Tiếng Anh tại các trung tâm tiếng anh là nơi hội tụ nhiều người mê và ham học Tiếng Anh. Bạn hãy chịu khó xin lịch họat động các câu lạc bộ và chăm chỉ đến nói chuyện cùng các thành viên câu lạc bộ. Nếu bạn là một tay "mọt net" thì đừng ngại kết bạn với những người nói Tiếng Anh như ngôn ngữ thứ nhất trên các forum, hay câu lạc bộ Tiếng Anh online.
Ngoài ra, những địa điểm thu hút khách du lịch như Văn Miếu, Tây Hồ, Bảo tàng Dân tộc học, Rạp múa rối nước, v.v... cũng sẽ đem đến cho bạn cơ hội giao lưu, nói chuyện bằng Tiếng Anh. Khi cần thực hành, cũng có thể làm hướng dẫn viên du lịch tình nguyện cho khách ngoại quốc. Bạn vừa được luỵên tập nói Tiếng Anh, vừa có công tạo được hình ảnh thân thiện,hiếu khách cho Việt Nam nữa đấy chứ.
 
3. Hãy nói thật nhiều:
"Học đi đôi với hành" - ngoại ngữ cũng vậy. Thay vì nói chuyện phiếm bằng Tiếng Việt với bạn bè hằng ngày, bạn hãy đổi sang Tiếng Anh xem. Có thể lập ra vài luật lệ cho nhóm bạn hay bạn bè cùng phòng như: Ai nói ra một câu/chữ Tiếng Việt phạt dọn nhà một ngày (Tất nhiên bạn có thể phạt nặng hơn) hay thứ 7 sẽ là "English Day".
Ngay cả khi vốn từ mới hay ngữ pháp chưa đủ, bạn cũng cứ nói "thả phanh" và nói... nửa Anh nửa Việt vì cách luyện tập này làm bạn có thói quen và nhu cầu dùng Tiếng Anh giao tiếp hàng ngày. Rồi sẽ đến lúc cứ không nói Tiếng Anh vài ngày, bạn có thể thèm quá mà cứ có cơ hội là xông ra nói ấy chứ. Nói thường xuyên và cùng bạn bè sửa lỗi cho nhau là cách tập năng động, tích cực và hiệu quả mà ngay cả các trường đại học chuyên ngành Tiếng Anh cũng áp dụng. Bạn hãy thử xem sao nhé.
4. Ngữ điệu
Ngoài những phương pháp kể trên, thì luyện ngữ điệu khi nói cũng là 1 điều rất quan trọng. Trong nhiều tình huống, giọng điệu sẽ tốt hơn là ngữ điệu dở. Tồi tệ nhất là khi một người lên giọng và xuống giọng quá nhiều ở mọi từ. Một điều nữa là bạn nên tránh là lên giọng ở cuối câu (trừ khi đó là câu hỏi Yes – No, hay câu mang tính chất mời lịch sự). Để điều chỉnh cho thích hợp ngữ điệu, thì bạn nên nghe vài file audio cung cấp bởi người bản địa. Bạn sẽ luyện nghe tiếng anh đúng ngữ điệu đúng là như thế nào. Sau khi nghe, bạn sẽ ghi âm lại ngữ điệu của bạn, và đối chiếu xem có giống nhau không? Nếu không nên tìm và sửa lại cho đúng.
Thật là dễ phải không bạn?
5. Tốc độ nói
Một lỗi thường gặp của những người muốn nói Tiếng Anh lưu loát là thường nói quá nhanh khiến người nghe không thể nắm bắt kịp người đối diện. Nhằm mục đích cải thiện khả nănggiao tiếp tiếng anh của bạn, và để người khác ít phải nói " excuse me " hơn. Lời khuyên của Western English dành cho những người muốn học Tiếng Anh giao tiếp có hiệu quả là hãy nói chậm lại và nói rõ ra, phải đảm bảo là có khoảng nghỉ giữa các từ với nhau cho những từ khó phát âm.
6.  Luyện nói tiếng anh tại 1 trung tâm dạy tiếng anh uy tín sẽ giúp bạn phát triển những kỹ năng trên

Nếu có thời gian và muốn phát triển các kỹ năng nói tiếng anh của mình 1 cách tốt hơn, bạn có thể đăng ký một lớp học nói tiếng anh tại trung tâm tiếng anh chất lượng, hiệu quả nhất hiện nay. Đây sẽ là cơ hội để bạn thực hành nói tiếng Anh với giáo viên và các bạn học khác. Khi giáo viên đặt câu hỏi, bạn hãy xung phong trả lời và hãy cố gắng nói càng nhiều càng tốt. Nếu giáo viên yêu cầu bạn thảo luận theo cặp hoặc theo nhóm, hãy cố gắng nói càng nhiều càng tốt. Đừng lo lắng về chuyện mắc lỗi. Chỉ cần tập trung để nói càng nhiều càng tốt.



Luyện nói tiếng Anh theo phương pháp "Nói gián tiếp"

Thực tập nói tiếng Anh luôn là mối quan tâm hàng đầu của người học. Hầu hết các chuyên gia, giáo viên và cả người bản ngữ đều khuyên người học tranh thủ mọi cơ hội để giao tiếp với tất cả mọi người, bất kỳ nơi đâu và bất kỳ khi nào. Đa phần, những người yêu thích tiếng Anh thường chọn cách tìm bạn bè nước ngoài ở những khu có nhiều khách du lịch nói tiếng Anh hoặc tìm đến những câu lạc bộ Anh ngữ, quán cà phê nói tiếng Anh để luyện tập.

Nhưng vì sao lại có lời khuyên như thế này? Xuất phát từ việc "học là phải hành", người học nóng lòng muốn thực tập những câu hay mình đã học với ý nghĩ là, "nói nhiều cho dạn miệng". Nhưng thực tế trong quá trình thực hành như thế này, người học chưa bao giờ áp dụng được một câu hay một cấu trúc đúng nào theo kiểu nói của người bản xứ. Thay vào đó, người học suy nghĩ đặt câu từ tiếng Việt của mình, diễn giải theo văn hoá Việt và lắp ghép từng từ đơn lẻ để diễn đạt thành câu. Chính vì thế, câu từ được diễn đạt theo kiểu tự phát này quá khác biệt so với văn hoá và cách nói bản xứ khiến trong cùng một tình huống mà cả hai không thể hiểu nhau.

Vì vậy, dù cho có thực tập, người học vẫn không thể tiến bộ nhiều. Nhiều trường hợp do chán nản lối nói tự phát mà người học không chọn cách này để thực tập nữa.

Phương pháp "nói gián tiếp" mới hình thành cách đây không lâu kể từ khi có hệ thống tìm kiếm câu đàm thoại - từ điển câu HelloChao  ra đời. Từ điển câu HelloChao cho phép người học gõ vào ý tiếng Việt cần nói, và tìm trong cơ sở dữ liệu của mình để liệt kê ra những cặp câu song ngữ Anh Việt có chứa cụm từ gõ vào. Người học chỉ cần diễn giải ý cần nói bằng tiếng Việt cho hoàn chỉnh trong một tình huống nào đó, sau đó tìm kiếm từng ý một trong từ điển câu HelloChao và viết lại thành một bài nói ngắn. Khi các câu từ đã được diễn đạt đúng theo văn nói bản xứ, người học chỉ cần chép vào một tờ giấy nhỏ và mang theo, lúc nào có thời gian rảnh rỗi mang ra đọc to, chỉnh sửa đúng âm bản xứ. Sau đó cứ liên tục lặp đi lặp lại càng nhiều lần càng tốt. Và trong lúc lặp lại, hãy tưởng tượng như đang nói chuyện với ai đó để câu từ được diễn đạt theo kiểu tự nhiên nhất.

Nguyên tắc đầu tiên để có thể nói được tiếng Anh là người học phải có sẵn câu từ trong đầu chứ không phải nhìn vào sách mới nhớ, nghe người ta nói mới nhớ. Nếu muốn diễn đạt ý gì đó mà câu từ không xuất hiện ngay lập tức, suy nghĩ mãi cho đến khi người ta nói đến ý thứ 10 rồi mới nghĩ ra ý thứ nhất thì làm sao mà trò chuyện được nữa. Tôi đã gặp nhiều người và họ đều nói rằng, nghe người ta nói thì hiểu hết nhưng nói lại thì không được. Thì đúng là như thế, người ta nói ra thì mình mới nhớ từ đó hay cụm hay câu đó có nghĩa gì. Còn tự mình diễn đạt thì mình không thể nhớ nổi câu từ ngay lập tức để nói ra.

Nếu muốn có sẵn câu từ, trong vòng vài giây phải nhớ ngay đến từ, cụm từ cần diễn đạt, người học cần phải lặp đi lặp lại nhiều lần hơn nữa các cụm từ và câu, đừng lặp lại từ đơn lẻ như kiểu "ôm từ điển" mà học. Càng lặp lại, thông tin càng ghi sâu vào bộ nhớ dài hạn giúp người học bật ra ngay lặp tức những câu từ cần thiết. Khi nhớ mang máng như kiểu "học để hiểu", "học để suy luận" như hiện thời, người học chỉ có thể làm bài thi để lấy bằng mà thôi.

Trước đây, phương pháp này chưa hình thành là vì chưa có một công cụ tìm kiếm câu - từ điển câu Anh Việt như HelloChao. Trước đây người học muốn nói gì phải chờ hỏi thầy cô hoặc bạn bè giỏi, nhưng không phải lúc nào cũng hỏi được nên đành tự lắp ghép, diễn giải một mình. Có khi người học thuần thục hơn, nhưng cách nói quá khác so với người bản xứ sinh ra một thực trạng "nhà quê lên tỉnh" mới khi nói tiếng Anh.

Cũng có khi không phải tìm câu gì cũng có trong HelloChao. Người học nên tách ra từng ý nhỏ để tìm thì chắc chắn sẽ có đủ ý mình cần. Điều tốt nhất trong một từ điển câu như HelloChao là từng ý đã được mô phỏng thành câu hoàn chỉnh theo đúng văn hoá và lối nói bản xứ rồi. Khi tìm được ý trong một câu hoàn chỉnh nào đó, người học chỉ việc thay đổi chủ từ, thay đổi trạng từ chỉ thời gian, nơi chốn và đổi thì (nếu cần) thì có thể biến đổi thành một câu khác mà không phải lắp ghép từ đầu.

Tóm lại, phương pháp "nói gián tiếp" là cách tìm câu đúng, phát triển câu thành bài nói, viết lại vào giấy cho chính xác và thực tập nói lại những câu đã viết thành bài nói này. Càng thực tập nhiều thì lượng ý hoàn chỉnh để diễn đạt đúng ngữ cảnh được tích luỹ nhiều. Và điều quan trọng hơn hết, càng thực tập nhiều, ngôn ngữ sẽ hình thành quán tính và tốc độ phản xạ sẽ nhanh.

Mong bài viết này có thể giúp ích cho các bạn yêu thích tiếng Anh. Tôi viết đây không phải là để quảng cáo cho HelloChao.vn, mà thực tế là HelloChao.vn có thể giúp chúng ta một cách thức thực tập tiếng Anh hiệu quả trong khi ai trong chúng ta cũng đều "học, học nữa, học mãi" mà tiếng Anh vẫn là điều vô vọng.

ml=1"; fjs.parentNode.insertBefore(js, fjs); }(document, 'script', 'facebook-jssdk'));